Thiền Đăng
Thứ Ba, 21 tháng 1, 2020
Thứ Ba, 14 tháng 1, 2020
KÝ SỰ CHUYẾN ĐI TÂY NGUYÊN CHIA SẺ 2020
Cuối tuần Mùa Giáng Sinh cũng vào dịp cuối năm. Xuân về Tết đến, mọi bước chân đều rộn rã hơn mọi khi, những con đường tràn ngập xe cộ, người người nô nức chào đón một cái Tết Nguyên Đán đủ đầy và tươi vui.
Hoà cùng không khí ấy... Nhóm Ex-Spc đã làm một chuyến đi
Tây nguyên. Những Ánh Sao có tuổi đời đã cao, lụ khụ…chân cẳng rệu rạo…mắt mờ
chân chậm…vậy mà với xe Hãng Sao Vàng đã làm một chuyến lên vùng Chư RCam, H’
Bông, Chư Sê và Phú Bổn (Cheo Reo) ... vào những ngày cuối tuần Lễ Hiển Linh.
+ Thứ bảy - 04/01/2020
Thánh lễ Hiển Linh vào sáng CN rất đông anh chị em dân tộc,
Cha Lợi dùng hai ngôn ngữ dâng thánh lễ, Ngài nhấn mạnh đến Ánh sao chia sẻ của
chị em mình và nói lên tấm lòng biết ơn đến những ân nhân xa gần ...
Chị Đại lên tiếng: “Bé nào thổi dùm bà đưa”
Nhiều cánh tay đưa ra và “thoi dum, thoi dum”
Mấy bong bóng thoi
dum đầu tiên còn đưa lại,
Tại đây,
quang cảnh hoang sơ, nhà dân thưa thớt, cây cối không tươi mát vì đất khô cằn
thiếu nước, vùng này nghèo nhất xã H’ Bông. Không đâu xa bên cạnh chúng ta vẫn
còn nhiều lắm những mảnh đời kém may mắn, những mảnh ghép bệnh hoạn, tật nguyền.
Cuối tuần Mùa Giáng Sinh cũng vào dịp cuối năm. Xuân về Tết đến, mọi bước chân đều rộn rã hơn mọi khi, những con đường tràn ngập xe cộ, người người nô nức chào đón một cái Tết Nguyên Đán đủ đầy và tươi vui.
Xưa kia Ba Vua đem quà đến biếu tặng Chúa Hài Đồng thì ngày
nay chị em “Ếch” đã đến với dân tộc nghèo, chút Ánh Sao le lói cuối đời với những
món quà đơn sơ nhỏ nhoi, người góp công kẻ góp của, những đồng tiền lẻ của các
bà goá đã tạo nên một chuyến đi rất thành công và nhiều niềm vui.
+ Thứ bảy - 04/01/2020
Rạng sáng thứ bảy,
nhóm đầy hưng phấn và thoải mái tập trung tại địa điểm quen thuộc HHT, chờ xe từ
Long Khánh... Đến hẹn lại có mặt, gồm 15 chị em. Mọi thứ đã chuẩn bị xong, xe đến
rất đúng giờ. Hai chú tài và lơ nhanh nhẩu đưa hành lý và những bao quà xếp lên
xe.
Xe 29 chỗ ngồi, chỉ 15 chị em nên một nửa xe đã chất đầy
quà, đa số phần quà do chị Thanh Thuỷ gom góp từ vùng Long Khánh. Tạ Ơn Chúa !
Chị Hai Quảng và chị Thanh Thuỷ đảm nhận phân phối quà cho từng địa điểm mà
chúng tôi sẽ ghé:
1/ Dak Song;
2/ H’ Bông;
3/ Chư RCam;
4/Phú Bổn.
Xe chuyển bánh lúc 6 giờ sáng, hướng về đường cao tốc đi Tây
nguyên.
* Trạm dừng chân đầu tiên là cơ sở của Dòng Đa Minh - Dak
Song. Sr Hà bề trên cũng là cháu của chị Hai Quảng. Tại đây chúng tôi được Sr
tiếp đón rất thân thiện, dùng cơm trưa và nghỉ ngơi đôi chút, mục đích để chú
tài nghỉ trưa. Chị em chúng tôi nằm nghỉ tám chuyện, xếp cá mòi trên những tấm
nệm đỏ của các bé lưu trú ( thứ 7 nghỉ)
Tiếp tục hành trình tối nay ngủ đêm tại H’ Bông. Nơi đây là
Ký túc xá của các thanh niên thiếu nữ dân tộc, gồm phòng học, phòng ăn, phòng tắm
và WC, phòng ngủ với hai dãy giường sắt hai tầng, gợi nhớ về dĩ vãng của thời Đệ
tử vàng son ...
+ CN - 05/01/2020
Điểm tâm xong xe đưa
chúng tôi đến nhà thờ đang xây dựng của Giáo họ D’ Lâm thuộc Gx. H’ Bông.
Cha cũng kêu gọi tiếp vì nhà thờ chưa xong, kinh tế thiếu hụt
vì vật giá leo thang... hình ảnh đã cho ta thấy rõ !!! ?
2/ Áo quần Nam
3/ Áo quần Nữ
4/ Áo quần thiếu niên
5/ Quần áo Nữ
6/ Nhu yếu phẩm vv..vv
Sau Thánh lễ một Hội Chợ nho nhỏ được bao quanh những dây bong bóng đủ màu, gồm 6 gian hàng :
1/ Đồ chơi trẻ em
Mỗi gia đình có 6 phiếu.
Sữa đậu nành uống tự do;
Bong bóng 3 ký vừa giăng vừa phát hết sạch...
Mỗi quầy có hai người phụ trách. Vui nhất là lúc thổi và
giăng bong bóng, nhận chỗ cho quầy của mình, sắp xếp phần quà ... hai chú tài
và lơ rất nhiệt tình, việc nặng nhọc là các anh có mặt, còn thổi rất nhiều bóng
bằng hơi xe cho đến khi không còn hơi ... phải nhờ các bé.
rồi “thoi dum, thoi dum” tiếp theo các bé bỏ túi không đưa lại nữa...hihi…
biết ý nên báo ngay cho các chị Thu Dung, Quảng, Mai Ninh,
Hà Lê phải khóe léo lấy lại từ tay mấy bé mới có thứ để giăng ...
Các em vui ra mặt, háo hức, cười nói…thoi dum…thoi dum…(thổi
dùm).
Hội chợ rất nhanh chóng hết hàng, số bong bóng còn lại phát
hết cho các em.
Nửa buổi sáng Chúa Nhật đã hoàn tất với nhiều cảm xúc: mệt có, vui
có, thành công có, khát và đói cũng có luôn. Về lại Ký túc xá cơm trưa, nghỉ
ngơi không quên Giờ Lòng Chúa Thương Xót và Lần hạt.
Đến hơn 15 giờ đi cùng Cha Xứ làm phép nhà mới.
Đến hơn 15 giờ đi cùng Cha Xứ làm phép nhà mới.
Tại căn nhà mới xây của “Góp Tay Xây Mảnh Đời” do nhóm xin tài trợ là bằng chứng rõ nhất, em
gái tật nguyền, chân tay co quắp từ lúc mới sinh, mặt mũi em gọn gàng, mắt
sáng, lanh lợi nhưng không đi lại được, khi ngồi cũng phải dựa vào một điểm tựa.
Cha mẹ già yếu, đông con. Trên khuôn mặt rạm nắng, nhăn nheo niềm vui tỏ lộ khi
hôm nay được Cha Xứ đến làm phép nhà mới... Mừng cho họ, vui lây niềm vui có
ngôi nhà mới ! Nhưng rồi... nhìn quanh vẫn còn qúa nhiều những hoàn cảnh bất hạnh,
mỗi con người, mỗi hoàn cảnh, mỗt số phận ...
Thật sự khi chúng ta được hưởng một cuộc sống đầy đủ, hạnh
phúc, cơm dư áo ấm, không thiếu thốn thì đâu đó vẫn còn nhiều mảnh đời bất hạnh
trên quê hương đất Việt này ... !
Mỗi chuyến đi là một lần kỷ niệm đáng nhớ và cảm xúc tràn về
!
Tiếng chuông chiều
của nhà thờ H’ Bông vang vọng có Thánh lễ CN Hiển Linh. Tuy sáng nay đã dự lễ rồi,
nhưng cảm thấy chưa trọn vẹn nên đi thêm lễ nữa...
Thứ hai ngày
6/01/2020
Điểm tâm bánh cuốn ướt mà Sr Kim Anh nói rằng cả xã H’ Bông
có mỗi tiệm. Tội quá, các Sr đi giúp xứ vùng sâu vùng xa là vậy, phải hy sinh
thiếu đủ mọi mặt trong đời sống, chỉ vì Tình Yêu Chúa Kitô thúc bách…
Đến Chư RCam - một cộng đoàn nhỏ của Dòng mình. Tham quan một
vòng. Vào nhà nguyện Viếng Thánh Thể - Cho các bé ăn. Thực hành lại màn “đút
cháo cho các bé” có mặt : Hà Lê, Mai Ninh, Thu Dung và Đại. Dĩ vãng ùa về nhớ
thời Đệ Tử, sau giờ học xuống Cô Nhi Viện của bà nhất Angela, đút cơm cho các
cô nhi. Các bé này còn nhỏ chỉ hơn một tuổi, lạ lẫm với người lạ nên không chịu
ăn, phải dỗ, phải mời, phải năn nỉ, phải mở miệng to cùng “ùm” để các bé cùng mở
miệng cho. Ôi, sao mà khó thế nhỉ, mãi không hết phần ăn của bé ... ngày xưa
các cô nhi ăn rất nhanh, lâu lâu mới có bữa à ê và đương nhiên các chị đệ tử sẽ
mạnh tay để chén cơm vơi dần...
Cũng ở Chư RCam chị em được thưởng thức tận gốc hạt điều và
bò khô, rất rẻ rất ngon…
Chiều tối về Phú Bổn và được 5 chị em Ex-spc Phú Bổn đãi bún
riêu, tại nhà ăn của Cha Xứ, bữa ăn tối chung với Cha Xứ thật vui vẻ và thân
thiện. Xin cám ơn Cha và các chị ! Qua đêm ở cộng đoàn Phú Bổn.
+ Thứ ba ngày
07/01/2020
Sáng sớm đi lễ tại nhà thờ Bon Ama Dj ơng, Ayun Pa / Cha Thịnh
- Dòng Chúa Cứu Thế chủ tế và một phó tế. Cộng đoàn là các em dân tộc hát đều
và rất hay. Dàn còng chiên trống đánh những bài trong thánh lễ nghe tuyệt vời, tiếng
hát và tiếng còng chiên hoà điệu nghe rất lạ…một bầu khí trang nghiêm thánh thiện,
sốt sáng, ngọt ngào, một cảm xúc khó tả và thích thú được thưởng thức âm vang
vùng rừng núi ...
Tiếp đến 7 giờ lên đường về, từ giã Phú Bổn ( Cheo Reo) trên
đường về Sg ghé Dak Song. Sr Hà đãi ăn trưa, Sr còn tặng mỗi chị em bịch chanh
muối.
Qua 4 chặng dừng
chân của 4 ngày 3 đêm, hành trình dong duổi đong đầy yêu thương của chị em
In-Spc và Ex-spc, đã lan tỏa ấm áp của Ánh sao và cả ấm áp từ tấm lòng của chị
em được gặp lại nhau sau nhiều ngày xa cách ... cùng sự nhiệt tình vui vẻ, dễ
thương của chú tài, chú lơ tạo bầu khí trở nên chan hoà, tươi vui, luôn có những
tiếng cười sảng khoái, những câu chuyện dí dỏm, nhân văn trong suốt chuyến đi
và về. Xin Tạ Ơn Chúa và cám ơn chị em, chú tài chú lơ.... !
Ai kia đã có câu xin
cóp tặng : “ Khi bạn cho đi hoa hồng, tay bạn sẽ vương lại hương thơm” !
Tường thuật : Chị Đặng thị Đại
Thứ Hai, 8 tháng 4, 2019
ĐỨC MẸ TRONG CUỘC ĐỜI...
ĐỨC MẸ TRONG CUỘC ĐỜI...
Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Stanisław
Ryłko, nguyên là chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân, hiện là Giám Quản
Đền Thờ Đức Bà Cả; và kinh sĩ đoàn của đền thờ.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha đã phân tích một
kinh nguyện mà có lẽ người Công Giáo Việt Nam nào cũng biết, đó là kinh Trông
Cậy.
Đức Thánh Cha nói:
Là dân Chúa trên đường lữ hành,
chúng ta hiện diện nơi đây trong ngôi đền thờ của Mẹ.
Sự hiện diện của Mẹ làm cho đền thờ này trở thành một mái
gia đình
cho những người con cái như chúng ta.
Cùng với các thế hệ người dân Rôma
chúng ta coi ngôi nhà từ mẫu này là mái nhà của chúng ta,
là nơi chúng ta tìm thấy sự tươi mát, an ủi, bảo vệ, và
nương náu.
Người Kitô hữu, ngay từ đầu, đã hiểu rằng trong những lúc
khó khăn và thử thách,
chúng ta phải dựa vào Mẹ, như được chỉ ra bởi kinh nguyện
cùng Đức Mẹ cổ xưa nhất: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin
chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan thiếu thốn, Đức Nữ đồng
trinh, hiển vinh sáng láng. Hằng chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ.”
Mẹ bảo vệ đức tin,
giữ gìn các mối quan hệ,
cứu giúp chúng ta trong những lúc
phong ba bão táp
và gìn giữ chúng ta khỏi mọi tà ác.
Nhà nào có Đức Mẹ,
ma quỷ không vào.
Nơi nào có Đức Mẹ
xáo trộn không chiếm được thế thượng phong, nỗi sợ hãi không
thắng thế.
Ai trong chúng ta không cần đến điều này,
ai trong chúng ta chẳng có lúc âu lo xao xuyến? Phong ba
giông bão trong ta
thường xuyên biết chừng nào,
biết bao những đợt sóng của các vấn nạn chồng chất lên nhau
trong khi những cơn gió lo lắng
không ngừng thổi tới!
Đức Maria là chiếc tàu chắc chắn
giữa cơn đại hồng thủy.
Các ý tưởng hay công nghệ
sẽ không đem lại cho chúng ta
bình an và hy vọng,
nhưng chính là khuôn mặt của Mẹ,
với đôi tay dịu dàng vuốt ve cuộc sống,
với lớp áo chở che chúng ta.
Chúng ta hãy học cách tìm nương náu,
chạy đến cùng Mẹ mỗi ngày...
Mẹ sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta.
Có một tước hiệu của Đức Mẹ rất hay
trong tiếng Hy Lạp, đó là “Grigorusa”,
nghĩa là “Mẹ vội vã cầu bầu”.
Tính từ “vội vã” là tính từ
được thánh Luca sử dụng trong Tin Mừng
để nói Đức Maria đã lên đường
đi thăm bà Elizabeth như thế nào:
nhanh chóng, tức khắc!
Mẹ nhanh chóng cầu bầu, không chút chậm trễ, như chúng ta đã
nghe trong Tin Mừng,
khi Mẹ lập tức nói với Chúa Giêsu
về nhu cầu cụ thể của những người đó:
“Họ hết rượu rồi” (Ga 2: 3), không còn gì nữa!
Đây là điều xảy ra mỗi lần chúng ta cầu xin Mẹ: khi hy vọng
của chúng ta úa tàn,
nụ cười héo hắt trên môi,
sức mạnh cạn kiệt,
lương tâm xao xuyến mịt mù,
những khi hết còn trông cậy,
Mẹ tức khắc can thiệp.
Chúng ta càng thiết tha kêu cầu,
Mẹ càng can thiệp nhiều hơn.
Mẹ chú ý tới những truân chuyên của chúng ta. Những hỗn loạn
trong cuộc sống chúng ta
gần gũi với trái tim nhạy cảm của Mẹ.
Và Mẹ không bao giờ coi thường
lời cầu nguyện của chúng ta;
Mẹ không để ai bị thất vọng.
Mẹ là một người mẹ,
Mẹ không bao giờ xấu hổ vì chúng ta,
Mẹ chỉ chờ đợi để có thể giúp con mình...
Chính Chúa biết rằng
chúng ta cần nơi trú ẩn và sự bảo vệ
giữa chập chùng những hiểm nguy.
Vì thế, vào khoảnh khắc tột cùng,
trên thập tự giá, Người nói
với người môn đệ yêu dấu,
và với tất cả các môn đệ: “Này là Mẹ con!”
(Ga 19:27).
Mẹ không phải là một lựa chọn,
một điều tùy chọn,
nhưng là giao ước của Chúa Kitô với chúng ta.
Và chúng ta cần Mẹ như một người lữ hành
cần được giải khát,
như một em bé cần được cưu mang
trong vòng tay mẹ.
Thật là chí nguy cho đức tin
khi chúng ta sống mà không có Mẹ,
không được bảo vệ,
khi chúng ta để mình bị cuốn hút bởi cuộc sống như những
chiếc lá cuốn theo chiều gió.
Chúa biết và khuyến khích chúng ta
chào đón Mẹ.
Đó không phải là thứ vẽ vời thêm
về mặt tinh thần,
nhưng là một nhu cầu của cuộc sống.
Tình yêu không phải là những vần thơ,
nhưng là biết làm thế nào để sống.
Bởi vì không có Mẹ
chúng ta không thể là những đứa con.
Và chúng ta trước hết, là những đứa con, những đứa con được
yêu,
những người có Chúa là Cha
và Mẹ Maria là Mẹ mình...
Công đồng Vatican II dạy rằng
Đức Maria là “dấu chỉ hy vọng chắc chắn
và sự an ủi cho dân lữ hành của Thiên Chúa”
(Tông hiến Lumen Gentium – Ánh Sáng Muôn Dân, VIII, V).
Đó là một dấu chỉ, một dấu chỉ Thiên Chúa đã đặt để cho
chúng ta.
Nếu chúng ta không theo dấu chỉ đó, chúng ta lạc lối.
Bởi vì có một biển báo về đời sống tinh thần, mà chúng ta
phải theo.
Nó chỉ cho chúng ta, những người “vẫn còn lang thang giữa
chập chùng những hiểm nguy và gian nan” (thượng dẫn., 62), thấy Mẹ,
là Đấng đã đạt đến mục tiêu.
Còn ai hay hơn Mẹ để đi cùng chúng ta trên cuộc hành trình?
Chúng ta còn đang chờ đợi điều gì?
Như môn đệ dưới cây thập tự chào đón Mẹ,
“Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19:27),
chúng ta cũng vậy, từ ngôi nhà từ mẫu này
chúng ta hãy rước Đức Maria về nhà chúng ta,
trong trái tim chúng ta, trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta không thể là người dửng dưng hay tách biệt với Mẹ,
nếu không chúng ta sẽ mất đi căn tính là con cái và bản sắc
của mình như một dân tộc,
và chúng ta sống một thứ Kitô Giáo bao gồm các ý tưởng, các
chương trình,
mà không có lòng tin, không có sự dịu dàng, không có con
tim.
Nhưng khi không có con tim thì không có tình yêu
và đức tin trở thành một câu chuyện thần tiên về những thời
xa xưa.
Trái lại, Mẹ bảo vệ và chuẩn bị cho con cái mình.
Mẹ yêu con cái mình, bảo vệ chúng, và thế giới của chúng.
Hãy tiếp rước Mẹ hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta,
để Mẹ hiện diện thường xuyên trong gia đình của chúng ta,
trong thiên đường an toàn của chúng ta.
Hãy ủy thác cho Mẹ mỗi ngày.
Chúng ta hãy kêu cầu Mẹ trong mọi lúc âu lo.
Và đừng quên quay lại để cảm ơn Mẹ.
Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ,
chúng ta hãy nhìn Mẹ một cách dịu dàng
và kính chào Mẹ như các Kitô hữu ở Êphêsô đã từng kính chào
Mẹ.
Tất cả cùng nhau chúng ta hãy kêu cầu ba lần:
“Lạy Mẹ Thánh của Thiên Chúa”
“Lạy Mẹ Thánh của Thiên Chúa”,
“Lạy Mẹ Thánh của Thiên Chúa”
Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2019
CHUYỆN TÌNH...
Chuyện tình đẫm nước mắt của thời ly loạn:
Một bài viết về tình yêu rất hay của người con gái xứ
Huế,mời các bạn đọc !
DẪU LÌA NGỎ Ý (Ngô Hương Thủy)
Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu rất
hay về tình bạn: “Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn ”.
Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng
mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu học
Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên kia
sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan. Căn
nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công chức cao
cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật đẹp của các
loài hoa : Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan…Mấy chị em sống khép kín như những con
ốc trong bốn bức tường rêu.
Tôi, tên bình thường : An Nhiên, gia cảnh cũng “thường
thường bậc trung”, tóc cắt kiểu Demi Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy
mà chúng tôi thương nhau vô cùng. Chỉ có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt
luôn khép kín trong tiếng sủa của con Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có
tôi chiếm được lòng tin của ba mạ Cát Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi như
con. Hình như hai bác xem tôi là một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu ớt của
mình.
Chúng tôi đã có một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên. Những
chiều mùa hạ dắt nhau vô con đường bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt
bông phượng đỏ về làm bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau qua
cầu Phú Xuân, gió hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những đêm cùng
học bài thi, em gái Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè hạt sen long
nhãn mát rượi. Mạ Cát Đằng thường cười bảo tôi “Phải chi An Nhiên là con trai,
bác gả Cát Đằng cho cháu.”
Tuổi dậy thì hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều người
tán. Tan học về bao nhiêu cái đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn mới chịu lui
gót. Tôi như garde corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ tôi
làm chim xanh kèm theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một ông
Trưởng Ty đang theo học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn hơn tôi.
Cát Đằng tâm sự : “Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh. Ngó
phát ớn!”. Người hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi bụi như tài tử Charles
Bronson, đêu đểu với bộ ria giống nụ cười của Clark Gable hoặc chí ít cũng phải
lãng tử như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ chở nàng công chúa Audrey Hepburn
chạy khắp thành Rome trong Vacances Romaines… Thâm tâm tôi thấy bạn mình quá
lãng mạn.. Biết tìm đâu ra người lý tưởng trong môi trường phố thị này?
Ấy thế mà một hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã xuất
hiện. Đó là một buổi sáng “đầy sương thu và gió lạnh” như trong văn Thanh Tịnh,
đoàn Sinh Viên Sỹ Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học Văn Khoa tuyển quân.
Phải công nhận sự có mặt của họ như một hiện tượng trong sân trường xưa nay
toàn áo dài, chemise , quần tây. Trong trang phục worsted thật đẹp, thật hào
hùng mặt anh nào cũng sáng láng thông minh. Họ trình bày thật ấn tượng về ngôi
trường quân sự ở Đà Lạt ngang ngửa với Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ.
Đứng bên những chàng trai Văn Khoa “trói gà không chặt”, trông các anh cao to
và đường đường khí thế. Nhìn qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây.
Nàng say sưa dán mắt vào anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói
giọng Bắc pha chút Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi
trường cho sinh viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng
ngạc nhiên nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai người gặp
nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô bạn mình. Má
nàng ửng hồng , ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm…Chuông reo giờ ra chơi, hai
người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên hành lang Morin.
Ra về, tôi bảo Cát Đằng “Mình thấy hình như có Coup de
Foudre”. Nàng yên lặng do dự một chút rồi bảo tôi : -“An Nhiên ơi, bạn có
thương mình không?”. Tôi ngạc nhiên : - “Tui không thương bạn thì thương ai?” -
“Vậy thì chiều ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí! ” “- Được thôi mà”
Buổi chiều , tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới giàn
bông giấy. Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo, quần
tây đen. Trông Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê nàng như
điếu đổ. Ngồi nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như ngóng trông ai…Và
bốn giờ chiều. Một bóng người trước cửa. Anh chàng Sinh viên Võ bị hồi sáng…Cô
nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà tôi làm nơi gặp gỡ.
Tôi không tin lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn
hay nói tôi là kẻ cứng lòng. Nhưng với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là
một mối nhân duyên mà tôi là người góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không
phải là type người “ yêu cuồng sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai một
nụ. Con nhà gia thế, kín cổng cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám vượt qua
khuôn phép gia đình và xứ Huế vốn dễ tiếng tăm?
Chàng sinh viên sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ ba
trường Võ bị. Anh gốc Bắc, di cư vào Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ
hai. Anh sống cùng mẹ và chị gái bên Bến Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước
đây từng học MPC rồi mới quyết định tòng quân. Đợt tuyển quân này là một cơ hội
cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để hai người gặp nhau.
Anh H. hiền, tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn
nhầm. Hai người có một tuần để hiểu nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin
cho bạn đi học nhóm, đi thảo luận… để rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An,
chùa Từ Hiếu hẹn hò. Trong khi hai người trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới
những hàng thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm
nhìn bạn sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa
chúng tôi về thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép mình trong một khu vườn sum suê cây
trái.Tiếng chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ hiền lành mừng rỡ đón bạn của con;
người chị gái tên Hương thương em vô hạn, chăm anh từng ly từng tý. Tôi mừng
cho Cát Đằng.
Anh H. trở về Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi trở
thành địa chỉ cho hai người trao đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần.
Cát Đằng có một cái hộp bánh CHOCOLATE hình chữ nhật .Đọc xong thư bạn cất vào
đó và nhờ tôi giữ hộ. Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè.
Không ai biết ngoài tôi.
Gần cuối năm 1971, sau khi đọc xong lá thư có cái insigne
rồng vàng ôm kiếm thiêng, Cát Đằng có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm trên chiếc
xích đu trắng nhìn mông lung. Tôi mở lời : “Răng đó? Giận nhau hả?”. –“Không,
có chi mô”. Lần này, bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền ngẩm.
Con đường đến giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự yên
lặng của Cát Đằng. Giờ English Grammar bạn dường như không nghe lời thầy John
Schaffer giảng. Lúc ra chơi, đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi, Cát
Đằng đưa bức thư cho tôi : “An Nhiên đọc đi !”.Tôi liếc nhanh qua bức thư với
những lời yêu thương nồng thắm nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy mình xâm
phạm chuyện riêng tư của bạn. A, đây rồi. Cái lý do làm bạn tôi trăn trở hai
ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có mặt trong đêm Lễ trao nhẫn truyền thống của
SVSQ năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi Đà Lạt ư ? Tôi không thể hình
dung được chuyện này. Không được.. Chuyện quá nghiêm trọng với con gái Huế,
nhất là với bạn tôi, một người chưa hề bước chân qua đèo Hải Vân.
Ánh mắt của Cát Đằng tha thiết: “ An Nhiên giúp mình đi. Năn
nỉ mà. Cam đoan không có chi xảy ra. Mình đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể giúp
mình…”. Điều gì khiến một người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết định
liều lĩnh thế ? Cái này gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư ? Xưa nay tôi vốn dị
ứng với thứ tiểu thuyết lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin vào nhan
đề một cuốn truyện của Lệ Hằng “ Chết cho tình yêu”. Không, không đựơc.
Hai đứa không nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng cái vẻ
ủ dột của Cát Đằng làm tôi thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức thư
ngắn. Anh bảo chính vì xem Cát Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có mặt
trong buổi lễ trang trọng và ý nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến đi.
Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở thành kẻ
đồng lõa trong cuộc hành trình của bạn.
Vậy là tôi sang nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào Đà
Nẵng ăn cưới bà chị họ. Mạ bạn tỏ ra e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế.
Nhưng ba bạn thoáng hơn, hình như ông đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn
nữa, chơi với Cát Đằng hơn mười mấy năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.
Ba của bạn đích thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không thể
ngờ rằng khi tới Đà Nẵng, việc đầu tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt Nam
trên đường Độc Lập. Và chuyến bay DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao nguyên
lúc hai giờ chiều để tôi ở lại với cõi lòng như lửa đốt.
Ba đêm tôi ăn không ngon, ngủ không yên ở nhà bà chị. Tôi
chắp hai tay cầu nguyện Chúa, Phật và tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến đi
thuận buồm xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã lạc lòng trước những giọt nước mắt
của bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi...
Và chiều thứ hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn bước
ra từ chiếc Bus của Hàng không Việt Nam.
Nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy. Mặt
Cát Đằng hớn hở như trăng rằm, môi cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi, hôn
lên má : - “Cám ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng”. Những giận hờn
trong tôi đều tan biến.
Trên chuyến xe ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu
chuyện . Thành phố hoa, những con dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ
Xuân Hương và một tấm ảnh đầy ấn tượng. Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ Lễ
trao nhẫn với hai cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to được trang
trí cách điệu lộng lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H. chiếc nhẫn Võ Bị. Họ
như đôi tân lang và tân nương trong ngày cưới. Mãi mãi đây là một bí mật chỉ
riêng ba người biết…
Thi thoảng chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh coi
Cát Đằng như con dâu tương lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di cư
vào Nam, về lúc cha anh mất , về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào
Bình Dương kiếm sống. Có những đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng
ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho bạn
tôi cách chế biến những món ăn mà con trai thích như canh cua rau đay, bún chả…
Cuối năm 1972 anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép trước
khi về trình diện tại Sư đoàn 9 Bộ binh có biệt danh “ Mũi tên thép”, Bộ Tư
Lệnh Sư đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường
miền Trung đang sôi động với chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Đêm đêm
tiếng đại bác ì ầm từ phía Bắc vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo lính rằn
ri. Cát Đằng có vẻ yên tâm với sự chọn lựa này dù hai người có xa nhau về không
gian. Mười ngày, tôi phải ra sức bao biện cho bạn để họ có những giây phút hạnh
phúc.
Rồi cũng đến lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam.. Hình
ảnh cuối cùng trong mắt tôi là cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay người
yêu nói những lời từ biệt : “Em cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm. Anh
sẽ về với em và sẽ thưa chuyện với ba mẹ”. Bạn tôi cười mà nước mắt hoen mi.
Như muốn làm Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục.
Anh đóng quân ở Cao Lãnh. Anh làm Đại đội trưởng một đại đội trực thuộc Tiểu
đoàn 3 Trung đoàn 14. Anh nói về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam
hồn nhiên, những đồng ruộng bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể
chuyện chiến trường, chắc để người yêu bớt lo.
Nhà ông Trưởng Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con trai
đi du học. Cô bạn tôi nói với ba mạ “Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó cô
gặp riêng chàng trai và bảo “Tôi có người yêu rồi. Anh đừng mất công” .Tội
nghiệp anh chàng cứ đứng ngẩn tò te.
Cứ thế, những lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng dự
trù với tôi về tương lai. Một ngôi nhà với ngọn lửa ấm và những đứa con ngoan
sẽ ra đời. Ước mơ trong tầm tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ cười
bao dung.
Buổi chiều hai đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh chim
sâu sa xuống trước mặt. Bạn tôi nâng nó lên, âu yếm vuốt ve “Tội nghiệp mày
chưa. Chị nuôi em nhé!”. Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng: “Chim sa cá
nhảy. Ăn nói bậy bạ”. Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi le lưỡi
“Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con chim thấy tội bắt chết!”
***
Huế tháng chín. Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám
vàng. Tôi chở Cát Đằng lên Nguyệt Biều chọn những trái thật ngon về cúng Rằm
tháng Tám. Bạn không quên lựa một cặp thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ.
Hai đứa ngồi thòng chân xuống dòng nước sông Hương trên bến đò Giã Viên. Trời
thật đẹp. Nắng vàng như mật . Gió hiu hiu. Cát Đằng thở dài “Phải chi có anh H
”. Tôi nguẩy vai “Rồi sẽ có ”.
Rẽ vào căn nhà dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân sáo
trên lối đi quen thuộc. Nhà vắng ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên bàn
thờ . Chị Hương ngồi lặng trên ghế, nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng: “Có
chuyện chi rứa chị ? Mẹ mô rồi? ”. Chị Hương òa khóc: “ Mẹ với anh Hùng đi Vĩnh
Long. Em ơi, thằng H.”…. Cát Đằng quỵ xuống đất.Tôi và chị Hương đỡ vội lên.
Mặt bạn tái xanh, hơi thở ngắn như không còn sức sống. Tôi rót cho bạn một ly
nước lọc rồi hỏi han chi tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe trong tiếng sụt sịt.
Anh Hùng từ Bình Dương gọi ra báo tin anh H. bị thương nặng trong cuộc hành
quân vào mật khu ở quận Mỹ An, vùng Đồng Tháp Mười . Mẹ chị đang trên đường
vào, chưa biết chi thêm.Trong bóng chiều chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng.
Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư
cho bạn. Anh đang đóng quân ở Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công - quê
hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương …Thượng đế
ác nghiệt vậy sao? Anh vừa tròn 26 tuổi, ra trường mới chín tháng…
Không biết bằng cách nào tôi đã đưa được Cát Đằng về đến
nhà. Bạn ngồi sau tôi xiêu vẹo như một cái xác không hồn. Tôi nói với bác gái
bạn bị trúng gió rồi đưa bạn vào phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin
ở lại, thi thoảng lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ
trong giây phút này đều bất lực!
Nhưng nỗi bất hạnh không chỉ ngang chừng đó.Trong khi Cát
Đằng định thưa thật với ba mạ để xin phép vào Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ
anh H. nhắn ra anh H. không chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như
anh đã chết.Thôi còn mong chi nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi
đau ẩn giấu tận trong tim biến bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn
vặn tôi hai đứa có chuyện chi không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế bác
tối tối thắp nhang ngoài cổng ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh đàng dưới
”.
Phải sau ba tháng mẹ anh H.. mới ra Huế. Bà sút gần bốn kí
và hốc hác hẳn đi. Bà ôm lấy Cát Đằng khóc nghẹn “Con ơi! Bác không có duyên
làm mẹ con rồi !”. Cát Đằng òa lên nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng.Tôi
thật đau xót khi thấy đêm đêm bạn lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm nghía.
Không hiểu sao nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm tin
của người mẹ cho rằng con mình chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết. Mắt
anh sáng, tai anh to vậy mà.. Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó chăng?
Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ anh H. vắng nhà luôn. Chị Hương bảo bà vào Bình Dương
chơi với cháu nội cho đỡ buồn. Khu vườn rộng thui thủi một mình chị. Mỗi lần
ghé thăm, nhìn Cát Đằng, chị lại bệu bạo “ Số em sao khổ thế H. ơi !”
Những đợt trao trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị làm
cho Cát Đằng hi vọng. Biết đâu anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn
chăm chú theo dõi trên những tờ báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày
qua. Niềm hi vọng hầu như đã thành tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến
sự ngày càng ác liệt. Máy bay cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang Cá
trong Thành Nội…
Rồi Huế nháo nhác, tan tác…Rồi đất nước tang thương…
Ba Cát Đằng đi “cải tạo” vì bị xếp vào loại “ Ngụy quyền”.
Bạn tôi bước xuống cuộc đời.
Trải một tấm nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng đi
bán chợ trời. Cô tiểu thư con nhà quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với gánh
nặng áo cơm của cả gia đình. Bạn bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao
động, vài cái loon Guigoz tiện cho người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ
của vợ các sỹ quan một thuở huy hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt
cho đến cái chén kiểu, ly tách sang trọng một thời vang bóng...Nhìn bạn đếm
từng hào tiền Bắc sau buổi chợ, tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất nước đều
như thế, biết làm sao.
Thỉnh thoảng nhờ em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên
Thiên An quét lá thông về làm chất đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia
đình chúng tôi làm gì có đặc quyền đặc lợi ấy. Sau khi nhét đầy lá vào hai bao
tải, chúng tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt nhìn chung
quanh.Tôi biết trong đầu bạn đang nghĩ về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi này, ngày
ấy có một cặp tình nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng thông. Cảnh đấy
người đây nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám gợi lên điều gì với bạn.
Mọi chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng mai thức dậy lại phải đối mặt
với sự thật kinh hoàng.
Thành phố tăm tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những
chiếc Honda đổi chỗ cho giai cấp cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn
mặt đau khổ nhếch nhác. Những câu ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng.
Những bài hát được chế biến bi hài. Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất
hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. “Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ tôi ngữa mặt
than trời rồi chặt hết những cây mai vàng thay vào mấy luống khoai lang cứu
đói!
Bốn năm sau, ba Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực kiệt.
Mạ bạn khô nước mắt đi thăm mộ chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi trong
rừng được đánh dấu bằng viên đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính trụ
cột gia đình. Tóc bà bạc trắng. Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành ngoặc
đơn rồi ngoặc kép.
Từ nước ngoài người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất hiện
như một vị cứu tinh. Anh ta gởi về giúp gia đình bạn những xấp vải, những gói
thuốc tây, những đồng đô la được khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm
một mục đích chinh phục tình yêu của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ
bạn tha thiết khẩn nài “Con ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí
thức. Lấy hắn con cũng sướng mà các em cũng đỡ khổ. Với lý lịch này thì nhà
mình không ngóc đầu lên được . Con chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông nông dân
mà thôi” .. Bạn tôi gục mặt vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng bạn đang
nghĩ đến một Thúy Kiều hiện đại?
Tôi khuyên Cát Đằng : Mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Anh
H. mất rồi. Đã gần 7 năm. Bạn đâu phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này đôi
khi phải thực tế. Bạn yên lặng gật đầu.
Mọi chuyện được thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước
ngoài trở về. Một vài lễ nghi cần thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy
tờ bảo lãnh.
Tôi đưa Cát Đằng lên thăm chị Hương lần cuối. May sao lại
gặp mẹ anh H. từ Bình Dương trở về. Bác bảo có thể bác sẽ vào trong đó ở hẳn.
Bác ôm vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”.
Trên bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ. Bạn
tôi xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H. chút vốn
liếng còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “ H. ơi! ”.
Trước khi xuất cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một đêm.
Bạn đem theo cái hộp bánh CHOCOLATE chứa những bức thư của hai người, tấm ảnh
trao nhẫn được đặt lên trên. Cát Đằng bảo tôi “An Nhiên là một chứng nhân quan
trọng trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý giá này.
Bạn giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể ”. Tôi cất vào tủ sách, lòng ngậm
ngùi thương bạn.
Thời gian qua, Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông chồng
thành đạt, hai con một trai một gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành phố
Denver, tiểu bang Colorado. Tôi mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan hiền
như bạn tôi nhất định phải được sung sướng. Qua những cuộc trò chuyện từ nước
ngoài, tôi tránh gợi chuyện ngày xưa.
Tôi cũng đã có gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh sắp
đặt. Một ông chồng yêu vợ thương con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ hé
môi về chuyện bạn mình…
*
Ngày mai, gia đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ sách,
tôi cầm cái hộp bánh cũ. Những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh vẫn
còn rất rõ. Ôi! Nụ cười hạnh phúc của cả hai người.
Tôi không thể đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy đi
tính lại, tôi quyết định đem lên nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh H.
Không còn gì để hy vọng về anh nữa rồi.
Căn nhà vẫn như xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ hơn.
Tiếng chim sâu vẫn kêu lách chách trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc xe
vào gốc ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc
xe lăn trên hàng hiên. Tôi trách mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận rộn
với cơm áo, gạo tiền làm mình trở thành người có lỗi.
Tôi tự nhiên đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người đàn
ông nằm trên ghế sofa, tay cầm cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân, phía
bên dưới là một… khoảng trống. Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ? Đôi mắt
ấy, gương mặt ấy… Đúng là anh H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em? ”. Tôi bàng
hoàng, ngơ ngẩn.
Vâng, anh H. Anh bị thương nặng nhưng không chết. Trong cuộc
hành quân của Tiếu đoàn vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào ổ phục
kích. Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa về
quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm đứt dây
thần kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời. Trong cái đau đớn tận
cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số phận bất hạnh của
mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin với Cát Đằng là mình
bị mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…
Từ Cần Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa. Các bác
sỹ và y tá tận tâm chăm sóc anh. Vết thương bên ngoài tạm ổn, anh sang Trung
tâm phục hồi chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến bà bảo
với Cát Đằng mình vào Nam sống với người anh cả.
Sau ngày 30 tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị tống
ra đường. Anh về Bình Dương nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn được
quân y viện chăm sóc, lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới
háng. Mẹ già mất, Cát Đằng đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn
lại bên người chị gái thương yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu
mang, đùm bọc của các khóa Võ Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị và
một số anh em còn kẹt lại ở quê nhà... Cao quý thay tình nghĩa đồng môn của
những chàng trai cùng trường Mẹ! Anh cũng tự ôn kiến thức để dịch thuật, để
luyện thi cho các học sinh nghèo vào Đại học. Cụôc sống không đến nỗi thấy mình
là người vô dụng.
Cầm xấp thư và tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi: “Anh cám
ơn An Nhiên. Cố vật đã tìm về cố chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã chết.
Đó chính là tình yêu của anh giành cho cô ấy”.
Anh nâng chiếc nhẫn có viên hồng ngọc trên ngón tay áp út,
âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát Đằng đã lồng vào tay anh trong đêm
Lễ trao nhẫn trước phạn xá trường VBQGVN.
Một cơn gió lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành phố.
Hương Thủy
Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2019
BIẾN HÌNH
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- NĂM C
BIẾN HÌNH- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?
- Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
- Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?
Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2019
YÊU KẺ THÙ
16.3.2019 – Thứ bảy tuần I Mùa Chay
Yêu kẻ thù
PHÚC ÂM: Mt 5, 43-48
“Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời”.
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
Suy niệm:
“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin
vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”
Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi
cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.
Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.
Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.
Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.
“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).
Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,
nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.
“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?…
Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,
chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).
Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),
Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?
Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).
Là những người đồng hương thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.
Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.
Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.
Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.
Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.
Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.
“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,
Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.
Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),
trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.
Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,
xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.
Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.
Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha
nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).
Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.
Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,
những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.
Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?
vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”
Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi
cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.
Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.
Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.
Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.
“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).
Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,
nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.
“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?…
Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,
chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).
Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),
Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?
Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).
Là những người đồng hương thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.
Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.
Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.
Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.
Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.
Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.
“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,
Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.
Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),
trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.
Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,
xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.
Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.
Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha
nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).
Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.
Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,
những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.
Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?
Cầu nguyện :
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói :
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” Amen.
(Trích trong PRIER)
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói :
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” Amen.
(Trích trong PRIER)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)