Thứ Hai, 8 tháng 4, 2019

ĐỨC MẸ TRONG CUỘC ĐỜI...



ĐỨC MẸ TRONG CUỘC ĐỜI...

Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Stanisław Ryłko, nguyên là chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân, hiện là Giám Quản Đền Thờ Đức Bà Cả; và kinh sĩ đoàn của đền thờ.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha đã phân tích một kinh nguyện mà có lẽ người Công Giáo Việt Nam nào cũng biết, đó là kinh Trông Cậy.

Đức Thánh Cha nói:

Là dân Chúa trên đường lữ hành,
chúng ta hiện diện nơi đây trong ngôi đền thờ của Mẹ.
Sự hiện diện của Mẹ làm cho đền thờ này trở thành một mái gia đình
cho những người con cái như chúng ta.
Cùng với các thế hệ người dân Rôma
chúng ta coi ngôi nhà từ mẫu này là mái nhà của chúng ta,
là nơi chúng ta tìm thấy sự tươi mát, an ủi, bảo vệ, và nương náu.
Người Kitô hữu, ngay từ đầu, đã hiểu rằng trong những lúc khó khăn và thử thách,
chúng ta phải dựa vào Mẹ, như được chỉ ra bởi kinh nguyện cùng Đức Mẹ cổ xưa nhất: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan thiếu thốn, Đức Nữ đồng trinh, hiển vinh sáng láng. Hằng chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ.”

Mẹ bảo vệ đức tin,
giữ gìn các mối quan hệ,
cứu giúp chúng ta trong những lúc
phong ba bão táp
và gìn giữ chúng ta khỏi mọi tà ác.
Nhà nào có Đức Mẹ,
ma quỷ không vào.
Nơi nào có Đức Mẹ
xáo trộn không chiếm được thế thượng phong, nỗi sợ hãi không thắng thế.
Ai trong chúng ta không cần đến điều này,
ai trong chúng ta chẳng có lúc âu lo xao xuyến? Phong ba giông bão trong ta
thường xuyên biết chừng nào,
biết bao những đợt sóng của các vấn nạn chồng chất lên nhau
trong khi những cơn gió lo lắng
không ngừng thổi tới!
Đức Maria là chiếc tàu chắc chắn
giữa cơn đại hồng thủy.
Các ý tưởng hay công nghệ
sẽ không đem lại cho chúng ta
bình an và hy vọng,
nhưng chính là khuôn mặt của Mẹ,
với đôi tay dịu dàng vuốt ve cuộc sống,
với lớp áo chở che chúng ta.
Chúng ta hãy học cách tìm nương náu,
chạy đến cùng Mẹ mỗi ngày...

Mẹ sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta.
Có một tước hiệu của Đức Mẹ rất hay
trong tiếng Hy Lạp, đó là “Grigorusa”,
nghĩa là “Mẹ vội vã cầu bầu”.
Tính từ “vội vã” là tính từ
được thánh Luca sử dụng trong Tin Mừng
để nói Đức Maria đã lên đường
đi thăm bà Elizabeth như thế nào:
nhanh chóng, tức khắc!
Mẹ nhanh chóng cầu bầu, không chút chậm trễ, như chúng ta đã nghe trong Tin Mừng,
khi Mẹ lập tức nói với Chúa Giêsu
về nhu cầu cụ thể của những người đó:
“Họ hết rượu rồi” (Ga 2: 3), không còn gì nữa!
Đây là điều xảy ra mỗi lần chúng ta cầu xin Mẹ: khi hy vọng của chúng ta úa tàn,
nụ cười héo hắt trên môi,
sức mạnh cạn kiệt,
lương tâm xao xuyến mịt mù,
những khi hết còn trông cậy,
Mẹ tức khắc can thiệp.
Chúng ta càng thiết tha kêu cầu,
Mẹ càng can thiệp nhiều hơn.
Mẹ chú ý tới những truân chuyên của chúng ta. Những hỗn loạn trong cuộc sống chúng ta
gần gũi với trái tim nhạy cảm của Mẹ.
Và Mẹ không bao giờ coi thường
lời cầu nguyện của chúng ta;
Mẹ không để ai bị thất vọng.
Mẹ là một người mẹ,
Mẹ không bao giờ xấu hổ vì chúng ta,
Mẹ chỉ chờ đợi để có thể giúp con mình...

Chính Chúa biết rằng
chúng ta cần nơi trú ẩn và sự bảo vệ
giữa chập chùng những hiểm nguy.
Vì thế, vào khoảnh khắc tột cùng,
trên thập tự giá, Người nói
với người môn đệ yêu dấu,
và với tất cả các môn đệ: “Này là Mẹ con!”
(Ga 19:27).
Mẹ không phải là một lựa chọn,
một điều tùy chọn,
nhưng là giao ước của Chúa Kitô với chúng ta.
Và chúng ta cần Mẹ như một người lữ hành
cần được giải khát,
như một em bé cần được cưu mang
trong vòng tay mẹ.
Thật là chí nguy cho đức tin
khi chúng ta sống mà không có Mẹ,
không được bảo vệ,
khi chúng ta để mình bị cuốn hút bởi cuộc sống như những chiếc lá cuốn theo chiều gió.
Chúa biết và khuyến khích chúng ta
chào đón Mẹ.
Đó không phải là thứ vẽ vời thêm
về mặt tinh thần,
nhưng là một nhu cầu của cuộc sống.
Tình yêu không phải là những vần thơ,
nhưng là biết làm thế nào để sống.
Bởi vì không có Mẹ
chúng ta không thể là những đứa con.
Và chúng ta trước hết, là những đứa con, những đứa con được yêu,
những người có Chúa là Cha
và Mẹ Maria là Mẹ mình...

Công đồng Vatican II dạy rằng
Đức Maria là “dấu chỉ hy vọng chắc chắn
và sự an ủi cho dân lữ hành của Thiên Chúa”
(Tông hiến Lumen Gentium – Ánh Sáng Muôn Dân, VIII, V).
Đó là một dấu chỉ, một dấu chỉ Thiên Chúa đã đặt để cho chúng ta.

Nếu chúng ta không theo dấu chỉ đó, chúng ta lạc lối.
Bởi vì có một biển báo về đời sống tinh thần, mà chúng ta phải theo.
Nó chỉ cho chúng ta, những người “vẫn còn lang thang giữa chập chùng những hiểm nguy và gian nan” (thượng dẫn., 62), thấy Mẹ,
là Đấng đã đạt đến mục tiêu.

Còn ai hay hơn Mẹ để đi cùng chúng ta trên cuộc hành trình?
Chúng ta còn đang chờ đợi điều gì?
Như môn đệ dưới cây thập tự chào đón Mẹ,
“Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19:27),
chúng ta cũng vậy, từ ngôi nhà từ mẫu này
chúng ta hãy rước Đức Maria về nhà chúng ta,
trong trái tim chúng ta, trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta không thể là người dửng dưng hay tách biệt với Mẹ,
nếu không chúng ta sẽ mất đi căn tính là con cái và bản sắc của mình như một dân tộc,
và chúng ta sống một thứ Kitô Giáo bao gồm các ý tưởng, các chương trình,
mà không có lòng tin, không có sự dịu dàng, không có con tim.

Nhưng khi không có con tim thì không có tình yêu
và đức tin trở thành một câu chuyện thần tiên về những thời xa xưa.
Trái lại, Mẹ bảo vệ và chuẩn bị cho con cái mình.
Mẹ yêu con cái mình, bảo vệ chúng, và thế giới của chúng.
Hãy tiếp rước Mẹ hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta,
để Mẹ hiện diện thường xuyên trong gia đình của chúng ta,
trong thiên đường an toàn của chúng ta.
Hãy ủy thác cho Mẹ mỗi ngày.
Chúng ta hãy kêu cầu Mẹ trong mọi lúc âu lo.
Và đừng quên quay lại để cảm ơn Mẹ.

Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ,
chúng ta hãy nhìn Mẹ một cách dịu dàng
và kính chào Mẹ như các Kitô hữu ở Êphêsô đã từng kính chào Mẹ.
Tất cả cùng nhau chúng ta hãy kêu cầu ba lần:
“Lạy Mẹ Thánh của Thiên Chúa”
“Lạy Mẹ Thánh của Thiên Chúa”,
“Lạy Mẹ Thánh của Thiên Chúa”

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2019

CHUYỆN TÌNH...



Chuyện tình đẫm nước mắt của thời ly loạn:
Một bài viết về tình yêu rất hay của người con gái xứ Huế,mời các bạn đọc !

DẪU LÌA NGỎ Ý (Ngô Hương Thủy)

Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu rất hay về tình bạn: “Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn ”.
Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan. Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật đẹp của các loài hoa : Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan…Mấy chị em sống khép kín như những con ốc trong bốn bức tường rêu.
Tôi, tên bình thường : An Nhiên, gia cảnh cũng “thường thường bậc trung”, tóc cắt kiểu Demi Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy mà chúng tôi thương nhau vô cùng. Chỉ có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt luôn khép kín trong tiếng sủa của con Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có tôi chiếm được lòng tin của ba mạ Cát Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi như con. Hình như hai bác xem tôi là một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu ớt của mình.
Chúng tôi đã có một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên. Những chiều mùa hạ dắt nhau vô con đường bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt bông phượng đỏ về làm bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau qua cầu Phú Xuân, gió hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những đêm cùng học bài thi, em gái Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè hạt sen long nhãn mát rượi. Mạ Cát Đằng thường cười bảo tôi “Phải chi An Nhiên là con trai, bác gả Cát Đằng cho cháu.”
Tuổi dậy thì hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều người tán. Tan học về bao nhiêu cái đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn mới chịu lui gót. Tôi như garde corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ tôi làm chim xanh kèm theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một ông Trưởng Ty đang theo học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn hơn tôi. Cát Đằng tâm sự : “Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh. Ngó phát ớn!”. Người hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi bụi như tài tử Charles Bronson, đêu đểu với bộ ria giống nụ cười của Clark Gable hoặc chí ít cũng phải lãng tử như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ chở nàng công chúa Audrey Hepburn chạy khắp thành Rome trong Vacances Romaines… Thâm tâm tôi thấy bạn mình quá lãng mạn.. Biết tìm đâu ra người lý tưởng trong môi trường phố thị này?
Ấy thế mà một hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã xuất hiện. Đó là một buổi sáng “đầy sương thu và gió lạnh” như trong văn Thanh Tịnh, đoàn Sinh Viên Sỹ Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học Văn Khoa tuyển quân. Phải công nhận sự có mặt của họ như một hiện tượng trong sân trường xưa nay toàn áo dài, chemise , quần tây. Trong trang phục worsted thật đẹp, thật hào hùng mặt anh nào cũng sáng láng thông minh. Họ trình bày thật ấn tượng về ngôi trường quân sự ở Đà Lạt ngang ngửa với Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ. Đứng bên những chàng trai Văn Khoa “trói gà không chặt”, trông các anh cao to và đường đường khí thế. Nhìn qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây. Nàng say sưa dán mắt vào anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói giọng Bắc pha chút Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi trường cho sinh viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng ngạc nhiên nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai người gặp nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô bạn mình. Má nàng ửng hồng , ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm…Chuông reo giờ ra chơi, hai người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên hành lang Morin.
Ra về, tôi bảo Cát Đằng “Mình thấy hình như có Coup de Foudre”. Nàng yên lặng do dự một chút rồi bảo tôi : -“An Nhiên ơi, bạn có thương mình không?”. Tôi ngạc nhiên : - “Tui không thương bạn thì thương ai?” - “Vậy thì chiều ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí! ” “- Được thôi mà”
Buổi chiều , tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới giàn bông giấy. Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo, quần tây đen. Trông Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê nàng như điếu đổ. Ngồi nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như ngóng trông ai…Và bốn giờ chiều. Một bóng người trước cửa. Anh chàng Sinh viên Võ bị hồi sáng…Cô nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà tôi làm nơi gặp gỡ.
Tôi không tin lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn hay nói tôi là kẻ cứng lòng. Nhưng với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là một mối nhân duyên mà tôi là người góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không phải là type người “ yêu cuồng sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai một nụ. Con nhà gia thế, kín cổng cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám vượt qua khuôn phép gia đình và xứ Huế vốn dễ tiếng tăm?
Chàng sinh viên sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ ba trường Võ bị. Anh gốc Bắc, di cư vào Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ hai. Anh sống cùng mẹ và chị gái bên Bến Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước đây từng học MPC rồi mới quyết định tòng quân. Đợt tuyển quân này là một cơ hội cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để hai người gặp nhau.
Anh H. hiền, tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn nhầm. Hai người có một tuần để hiểu nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin cho bạn đi học nhóm, đi thảo luận… để rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An, chùa Từ Hiếu hẹn hò. Trong khi hai người trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới những hàng thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm nhìn bạn sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa chúng tôi về thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép mình trong một khu vườn sum suê cây trái.Tiếng chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ hiền lành mừng rỡ đón bạn của con; người chị gái tên Hương thương em vô hạn, chăm anh từng ly từng tý. Tôi mừng cho Cát Đằng.
Anh H. trở về Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi trở thành địa chỉ cho hai người trao đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần. Cát Đằng có một cái hộp bánh CHOCOLATE hình chữ nhật .Đọc xong thư bạn cất vào đó và nhờ tôi giữ hộ. Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè. Không ai biết ngoài tôi.
Gần cuối năm 1971, sau khi đọc xong lá thư có cái insigne rồng vàng ôm kiếm thiêng, Cát Đằng có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm trên chiếc xích đu trắng nhìn mông lung. Tôi mở lời : “Răng đó? Giận nhau hả?”. –“Không, có chi mô”. Lần này, bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền ngẩm.
Con đường đến giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự yên lặng của Cát Đằng. Giờ English Grammar bạn dường như không nghe lời thầy John Schaffer giảng. Lúc ra chơi, đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi, Cát Đằng đưa bức thư cho tôi : “An Nhiên đọc đi !”.Tôi liếc nhanh qua bức thư với những lời yêu thương nồng thắm nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy mình xâm phạm chuyện riêng tư của bạn. A, đây rồi. Cái lý do làm bạn tôi trăn trở hai ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có mặt trong đêm Lễ trao nhẫn truyền thống của SVSQ năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi Đà Lạt ư ? Tôi không thể hình dung được chuyện này. Không được.. Chuyện quá nghiêm trọng với con gái Huế, nhất là với bạn tôi, một người chưa hề bước chân qua đèo Hải Vân.
Ánh mắt của Cát Đằng tha thiết: “ An Nhiên giúp mình đi. Năn nỉ mà. Cam đoan không có chi xảy ra. Mình đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể giúp mình…”. Điều gì khiến một người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết định liều lĩnh thế ? Cái này gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư ? Xưa nay tôi vốn dị ứng với thứ tiểu thuyết lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin vào nhan đề một cuốn truyện của Lệ Hằng “ Chết cho tình yêu”. Không, không đựơc.
Hai đứa không nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng cái vẻ ủ dột của Cát Đằng làm tôi thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức thư ngắn. Anh bảo chính vì xem Cát Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có mặt trong buổi lễ trang trọng và ý nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến đi. Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở thành kẻ đồng lõa trong cuộc hành trình của bạn.
Vậy là tôi sang nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào Đà Nẵng ăn cưới bà chị họ. Mạ bạn tỏ ra e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế. Nhưng ba bạn thoáng hơn, hình như ông đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn nữa, chơi với Cát Đằng hơn mười mấy năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.
Ba của bạn đích thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không thể ngờ rằng khi tới Đà Nẵng, việc đầu tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt Nam trên đường Độc Lập. Và chuyến bay DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao nguyên lúc hai giờ chiều để tôi ở lại với cõi lòng như lửa đốt.
Ba đêm tôi ăn không ngon, ngủ không yên ở nhà bà chị. Tôi chắp hai tay cầu nguyện Chúa, Phật và tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến đi thuận buồm xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã lạc lòng trước những giọt nước mắt của bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi...
Và chiều thứ hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn bước ra từ chiếc Bus của Hàng không Việt Nam.
Nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy. Mặt Cát Đằng hớn hở như trăng rằm, môi cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi, hôn lên má : - “Cám ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng”. Những giận hờn trong tôi đều tan biến.
Trên chuyến xe ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu chuyện . Thành phố hoa, những con dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ Xuân Hương và một tấm ảnh đầy ấn tượng. Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ Lễ trao nhẫn với hai cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to được trang trí cách điệu lộng lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H. chiếc nhẫn Võ Bị. Họ như đôi tân lang và tân nương trong ngày cưới. Mãi mãi đây là một bí mật chỉ riêng ba người biết…
Thi thoảng chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh coi Cát Đằng như con dâu tương lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di cư vào Nam, về lúc cha anh mất , về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào Bình Dương kiếm sống. Có những đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho bạn tôi cách chế biến những món ăn mà con trai thích như canh cua rau đay, bún chả…
Cuối năm 1972 anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép trước khi về trình diện tại Sư đoàn 9 Bộ binh có biệt danh “ Mũi tên thép”, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường miền Trung đang sôi động với chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Đêm đêm tiếng đại bác ì ầm từ phía Bắc vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo lính rằn ri. Cát Đằng có vẻ yên tâm với sự chọn lựa này dù hai người có xa nhau về không gian. Mười ngày, tôi phải ra sức bao biện cho bạn để họ có những giây phút hạnh phúc.
Rồi cũng đến lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam.. Hình ảnh cuối cùng trong mắt tôi là cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay người yêu nói những lời từ biệt : “Em cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm. Anh sẽ về với em và sẽ thưa chuyện với ba mẹ”. Bạn tôi cười mà nước mắt hoen mi.
Như muốn làm Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục. Anh đóng quân ở Cao Lãnh. Anh làm Đại đội trưởng một đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 14. Anh nói về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam hồn nhiên, những đồng ruộng bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể chuyện chiến trường, chắc để người yêu bớt lo.
Nhà ông Trưởng Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con trai đi du học. Cô bạn tôi nói với ba mạ “Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó cô gặp riêng chàng trai và bảo “Tôi có người yêu rồi. Anh đừng mất công” .Tội nghiệp anh chàng cứ đứng ngẩn tò te.
Cứ thế, những lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng dự trù với tôi về tương lai. Một ngôi nhà với ngọn lửa ấm và những đứa con ngoan sẽ ra đời. Ước mơ trong tầm tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ cười bao dung.
Buổi chiều hai đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh chim sâu sa xuống trước mặt. Bạn tôi nâng nó lên, âu yếm vuốt ve “Tội nghiệp mày chưa. Chị nuôi em nhé!”. Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng: “Chim sa cá nhảy. Ăn nói bậy bạ”. Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi le lưỡi “Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con chim thấy tội bắt chết!”

***
Huế tháng chín. Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám vàng. Tôi chở Cát Đằng lên Nguyệt Biều chọn những trái thật ngon về cúng Rằm tháng Tám. Bạn không quên lựa một cặp thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ. Hai đứa ngồi thòng chân xuống dòng nước sông Hương trên bến đò Giã Viên. Trời thật đẹp. Nắng vàng như mật . Gió hiu hiu. Cát Đằng thở dài “Phải chi có anh H ”. Tôi nguẩy vai “Rồi sẽ có ”.
Rẽ vào căn nhà dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân sáo trên lối đi quen thuộc. Nhà vắng ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ . Chị Hương ngồi lặng trên ghế, nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng: “Có chuyện chi rứa chị ? Mẹ mô rồi? ”. Chị Hương òa khóc: “ Mẹ với anh Hùng đi Vĩnh Long. Em ơi, thằng H.”…. Cát Đằng quỵ xuống đất.Tôi và chị Hương đỡ vội lên. Mặt bạn tái xanh, hơi thở ngắn như không còn sức sống. Tôi rót cho bạn một ly nước lọc rồi hỏi han chi tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe trong tiếng sụt sịt. Anh Hùng từ Bình Dương gọi ra báo tin anh H. bị thương nặng trong cuộc hành quân vào mật khu ở quận Mỹ An, vùng Đồng Tháp Mười . Mẹ chị đang trên đường vào, chưa biết chi thêm.Trong bóng chiều chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng. Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư cho bạn. Anh đang đóng quân ở Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công - quê hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương …Thượng đế ác nghiệt vậy sao? Anh vừa tròn 26 tuổi, ra trường mới chín tháng…
Không biết bằng cách nào tôi đã đưa được Cát Đằng về đến nhà. Bạn ngồi sau tôi xiêu vẹo như một cái xác không hồn. Tôi nói với bác gái bạn bị trúng gió rồi đưa bạn vào phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin ở lại, thi thoảng lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ trong giây phút này đều bất lực!
Nhưng nỗi bất hạnh không chỉ ngang chừng đó.Trong khi Cát Đằng định thưa thật với ba mạ để xin phép vào Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ anh H. nhắn ra anh H. không chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như anh đã chết.Thôi còn mong chi nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi đau ẩn giấu tận trong tim biến bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn vặn tôi hai đứa có chuyện chi không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế bác tối tối thắp nhang ngoài cổng ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh đàng dưới ”.
Phải sau ba tháng mẹ anh H.. mới ra Huế. Bà sút gần bốn kí và hốc hác hẳn đi. Bà ôm lấy Cát Đằng khóc nghẹn “Con ơi! Bác không có duyên làm mẹ con rồi !”. Cát Đằng òa lên nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng.Tôi thật đau xót khi thấy đêm đêm bạn lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm nghía.
Không hiểu sao nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm tin của người mẹ cho rằng con mình chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết. Mắt anh sáng, tai anh to vậy mà.. Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó chăng? Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ anh H. vắng nhà luôn. Chị Hương bảo bà vào Bình Dương chơi với cháu nội cho đỡ buồn. Khu vườn rộng thui thủi một mình chị. Mỗi lần ghé thăm, nhìn Cát Đằng, chị lại bệu bạo “ Số em sao khổ thế H. ơi !”
Những đợt trao trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị làm cho Cát Đằng hi vọng. Biết đâu anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn chăm chú theo dõi trên những tờ báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày qua. Niềm hi vọng hầu như đã thành tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến sự ngày càng ác liệt. Máy bay cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang Cá trong Thành Nội…
Rồi Huế nháo nhác, tan tác…Rồi đất nước tang thương…
Ba Cát Đằng đi “cải tạo” vì bị xếp vào loại “ Ngụy quyền”. Bạn tôi bước xuống cuộc đời.
Trải một tấm nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng đi bán chợ trời. Cô tiểu thư con nhà quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với gánh nặng áo cơm của cả gia đình. Bạn bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao động, vài cái loon Guigoz tiện cho người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ của vợ các sỹ quan một thuở huy hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt cho đến cái chén kiểu, ly tách sang trọng một thời vang bóng...Nhìn bạn đếm từng hào tiền Bắc sau buổi chợ, tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất nước đều như thế, biết làm sao.
Thỉnh thoảng nhờ em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên Thiên An quét lá thông về làm chất đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia đình chúng tôi làm gì có đặc quyền đặc lợi ấy. Sau khi nhét đầy lá vào hai bao tải, chúng tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt nhìn chung quanh.Tôi biết trong đầu bạn đang nghĩ về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi này, ngày ấy có một cặp tình nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng thông. Cảnh đấy người đây nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám gợi lên điều gì với bạn. Mọi chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng mai thức dậy lại phải đối mặt với sự thật kinh hoàng.
Thành phố tăm tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những chiếc Honda đổi chỗ cho giai cấp cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn mặt đau khổ nhếch nhác. Những câu ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng. Những bài hát được chế biến bi hài. Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. “Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ tôi ngữa mặt than trời rồi chặt hết những cây mai vàng thay vào mấy luống khoai lang cứu đói!
Bốn năm sau, ba Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực kiệt. Mạ bạn khô nước mắt đi thăm mộ chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi trong rừng được đánh dấu bằng viên đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính trụ cột gia đình. Tóc bà bạc trắng. Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành ngoặc đơn rồi ngoặc kép.
Từ nước ngoài người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất hiện như một vị cứu tinh. Anh ta gởi về giúp gia đình bạn những xấp vải, những gói thuốc tây, những đồng đô la được khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm một mục đích chinh phục tình yêu của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ bạn tha thiết khẩn nài “Con ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí thức. Lấy hắn con cũng sướng mà các em cũng đỡ khổ. Với lý lịch này thì nhà mình không ngóc đầu lên được . Con chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông nông dân mà thôi” .. Bạn tôi gục mặt vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng bạn đang nghĩ đến một Thúy Kiều hiện đại?
Tôi khuyên Cát Đằng : Mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Anh H. mất rồi. Đã gần 7 năm. Bạn đâu phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này đôi khi phải thực tế. Bạn yên lặng gật đầu.
Mọi chuyện được thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước ngoài trở về. Một vài lễ nghi cần thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy tờ bảo lãnh.
Tôi đưa Cát Đằng lên thăm chị Hương lần cuối. May sao lại gặp mẹ anh H. từ Bình Dương trở về. Bác bảo có thể bác sẽ vào trong đó ở hẳn. Bác ôm vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”. Trên bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ. Bạn tôi xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H. chút vốn liếng còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “ H. ơi! ”.
Trước khi xuất cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một đêm. Bạn đem theo cái hộp bánh CHOCOLATE chứa những bức thư của hai người, tấm ảnh trao nhẫn được đặt lên trên. Cát Đằng bảo tôi “An Nhiên là một chứng nhân quan trọng trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý giá này. Bạn giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể ”. Tôi cất vào tủ sách, lòng ngậm ngùi thương bạn.
Thời gian qua, Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông chồng thành đạt, hai con một trai một gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành phố Denver, tiểu bang Colorado. Tôi mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan hiền như bạn tôi nhất định phải được sung sướng. Qua những cuộc trò chuyện từ nước ngoài, tôi tránh gợi chuyện ngày xưa.
Tôi cũng đã có gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh sắp đặt. Một ông chồng yêu vợ thương con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ hé môi về chuyện bạn mình…

*
Ngày mai, gia đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ sách, tôi cầm cái hộp bánh cũ. Những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh vẫn còn rất rõ. Ôi! Nụ cười hạnh phúc của cả hai người.
Tôi không thể đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy đi tính lại, tôi quyết định đem lên nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh H. Không còn gì để hy vọng về anh nữa rồi.
Căn nhà vẫn như xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ hơn. Tiếng chim sâu vẫn kêu lách chách trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc xe vào gốc ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc xe lăn trên hàng hiên. Tôi trách mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận rộn với cơm áo, gạo tiền làm mình trở thành người có lỗi.
Tôi tự nhiên đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người đàn ông nằm trên ghế sofa, tay cầm cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân, phía bên dưới là một… khoảng trống. Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ? Đôi mắt ấy, gương mặt ấy… Đúng là anh H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em? ”. Tôi bàng hoàng, ngơ ngẩn.
Vâng, anh H. Anh bị thương nặng nhưng không chết. Trong cuộc hành quân của Tiếu đoàn vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào ổ phục kích. Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa về quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm đứt dây thần kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời. Trong cái đau đớn tận cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số phận bất hạnh của mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin với Cát Đằng là mình bị mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…
Từ Cần Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa. Các bác sỹ và y tá tận tâm chăm sóc anh. Vết thương bên ngoài tạm ổn, anh sang Trung tâm phục hồi chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến bà bảo với Cát Đằng mình vào Nam sống với người anh cả.
Sau ngày 30 tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị tống ra đường. Anh về Bình Dương nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn được quân y viện chăm sóc, lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới háng. Mẹ già mất, Cát Đằng đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn lại bên người chị gái thương yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu mang, đùm bọc của các khóa Võ Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị và một số anh em còn kẹt lại ở quê nhà... Cao quý thay tình nghĩa đồng môn của những chàng trai cùng trường Mẹ! Anh cũng tự ôn kiến thức để dịch thuật, để luyện thi cho các học sinh nghèo vào Đại học. Cụôc sống không đến nỗi thấy mình là người vô dụng.
Cầm xấp thư và tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi: “Anh cám ơn An Nhiên. Cố vật đã tìm về cố chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã chết. Đó chính là tình yêu của anh giành cho cô ấy”.
Anh nâng chiếc nhẫn có viên hồng ngọc trên ngón tay áp út, âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát Đằng đã lồng vào tay anh trong đêm Lễ trao nhẫn trước phạn xá trường VBQGVN.
Một cơn gió lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành phố.

Hương Thủy

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2019

BIẾN HÌNH

  
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- NĂM C

BIẾN HÌNH- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để đến cuộc sống mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng chói chang từ đỉnh núi Ta bo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến dung mạo Người trở nên sáng láng, ánh sáng rực rỡ làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng thánh thiên, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên Giêrusalem để chịu khổ và chịu chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm hy vọng. Hy vọng đó là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Thiếu niềm hy vọng không ai có thể sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hy vọng vào mùa gặt bội thu. Người học sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc sách, vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hy vọng tương lai con cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời vinh quang Thiên Chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên Chúa. Cuộc trở về phải vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
  1. Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm gì về điều đó?
  2. Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
  3. Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều đó trong mùa Chay năm nay?

Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2019

YÊU KẺ THÙ

16.3.2019 – Thứ bảy tuần I Mùa Chay

Yêu kẻ thù

PHÚC ÂM: Mt 5, 43-48
“Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời”.
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.

Suy niệm:

“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin 
vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.” 
Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi 
cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma. 
Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh. 
Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá. 
Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi. 
“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43). 
Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù, 
nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh. 
“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?… 
Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng, 
chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22). 
Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44), 
Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai? 
Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22). 
Là những người đồng hương thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu. 
Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu. 
Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình. 
Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa. 
Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên. 
Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể. 
Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ. 
“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”, 
Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục. 
Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45), 
trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính. 
Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời, 
xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên. 
Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện. 
Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha 
nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48). 
Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi. 
Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình, 
những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa. 
Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này? 

Cầu nguyện :

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, 
có những ngày 
đón nhận những người khác 
là điều vượt quá sức con, 
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối. 
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, 
có những ngày 
con không thể nào kính trọng kẻ khác được, 
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy. 
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con 
có những ngày 
mà yêu mến người khác 
làm cho tim con đau nhói, 
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau 
và những giới hạn của bản thân con. 
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con 
trong những ngày khó khăn đó, 
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng 
tất cả chúng con đều là con cái Chúa 
và đừng để con quên lời Chúa nói : 
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất 
là làm cho chính Ta.” Amen. 
(Trích trong PRIER) 
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

LÀM HÒA...

15.3.2019 – Thứ sáu tuần I Mùa Chay

Làm hòa 

PHÚC ÂM: Mt 5, 20-26
“Hãy đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã”.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu. Các con đã nghe dạy người xưa rằng: Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án. Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng!”
Suy niệm:
Ngày 5-2-2009, trong một cuộc gặp gỡ thường niên có tính tôn giáo, 
Tổng thống Mỹ Barack Obama đã chia sẻ với các tham dự viên: 
“Dù chúng ta chọn niềm tin nào, hãy nhớ rằng 
chẳng có tôn giáo nào lấy căm thù làm giáo lý chủ yếu cho mình… 
Chẳng có Thiên Chúa nào lại dung túng 
chuyện cướp đi mạng sống của một người vô tội.”
Trên núi Sinai, ông Môsê đã nhận được giới răn “Ngươi chớ giết người.” 
Đức Giêsu cho thấy uy quyền của mình trong việc giải thích giới răn ấy. 
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” 
Ngài đã đẩy giới răn này đi xa hơn nhiều, vào tận trái tim con người: 
“Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa” (c. 22). 
Tình cảm nóng giận có thể dẫn đến nhiều chuyện không hay. 
Nó khiến người ta dùng lời nói mà lăng mạ, làm nhục người khác. 
Giận mất khôn, nóng giận thậm chí có thể đưa đến chỗ giết người. 
Nhưng Đức Giêsu không muốn loại trừ thứ nóng giận chính đáng, 
như ta thấy có nơi Ngài (x. Mc 3,5; Mt 23,17).
Mùa Chay là thời gian dành cho việc làm hòa với người anh em. 
Đây là công việc vừa quan trọng, vừa cấp bách. 
Quan trọng đến nỗi đòi ta để của lễ lại trước bàn thờ 
và đi làm hòa với người anh em đó, rồi mới trở lại dâng của lễ. 
Tương quan với Thiên Chúa cần được diễn ra trong bầu khí hòa thuận. 
Chúa chỉ nhận lễ vật khi trái tim ta bình yên. 
Điều đáng lưu ý là chúng ta phải đi làm hòa 
với các anh em đang có điều bất bình với ta, 
phải đi bước trước làm hòa dù ta chẳng phải là người gây chuyện. 
Nhưng cũng phải làm hòa với cả thù địch của mình (c. 25). 
Trên đường bị đưa đến cửa công, cần mau mau dàn xếp cho ổn thỏa. 
Cần trả ngay món nợ chưa thanh toán, kẻo bị kết án và tống ngục.
Làm sao thời gian Mùa Chay vừa là thời gian ta làm hòa với Chúa, 
vừa là thời gian ta làm hòa với một người đang sống gần bên. 
Đó là thời gian người con cả thôi đứng ngoài cổng, 
nhưng vào nhà để chung vui với cha và ôm lấy người em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2019

PHÚC ÂM: Mt 7, 7-12 “Ai xin thì sẽ nhận được”.

14.3.2019 – Thứ năm tuần I Mùa Chay

Ban những của tốt lành

PHÚC ÂM: Mt 7, 7-12
“Ai xin thì sẽ nhận được”.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho. Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Đấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người!
“Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế: Đấy là điều mà Lề luật và các tiên tri dạy”.

Suy niệm :

“Hãy xin thì anh em sẽ được cho, hãy tìm kiếm thì anh em sẽ tìm thấy, 
hãy gõ thì sẽ được mở cho anh em. 
Vì hễ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm kiếm thì sẽ tìm thấy, 
ai gõ thì sẽ được mở cho” (cc. 7-8). 
Biết bao người đã tin vào lời này của Đức Giêsu và đã cầu xin. 
Nhiều người đã được nhận lời, nghĩa là đã được như lòng mình ao ước. 
Nhiều người khác tuy không được điều mình xin, 
nhưng lại được ơn vui vẻ chấp nhận tình trạng của mình, 
ơn nhận ra ý nghĩa của nó, ơn có sức chịu đựng điều không thể chịu đựng nổi. 
Những người này cũng coi là mình đã được nhận lời. 
Tuy nhiên, một số người khác vẫn đau khổ vì thấy không được nhận lời. 
Họ xin những điều rất bình thường như có một người yêu, một đứa con… 
Họ xin những điều rất tự nhiên, rất hợp lẽ, 
như cho con bỏ ma túy, cho chồng bỏ vợ bé, cho có công ăn việc làm. 
Bao người Do thái đã cầu nguyện khi 6 triệu đồng bào của họ bị tàn sát. 
Bao người Việt Nam đã cầu nguyện trong cơn bách hại dưới các triều vua. 
Có Chúa không? Chúa ở đâu? Sao Chúa lặng thinh và khoanh tay? 
Chúa có lòng thương xót không? Chúa có toàn năng không? 
Những câu hỏi đớn đau khiến một số người mất đức tin, trở nên vô thần. 
Đức Giêsu khẳng định: xin sẽ được cho, tìm thì sẽ thấy, gõ sẽ được mở. 
Thiên Chúa luôn luôn đáp trả mong đợi của con người, 
nhưng không nhất thiết Ngài phải cho con người đúng điều họ muốn, 
vào đúng lúc và theo đúng cách con người muốn. 
Con người phải tập đào sâu và thanh luyện ao ước của mình, 
tập uốn ý mình theo ý của Thiên Chúa. 
Rồi cuối cùng, con người cũng thấy mình được cho, được thấy, được mở. 
Ai kiên trì cầu xin đều thấy mình dần dần được biến đổi. 
Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chỉ ban cho con cái Ngài những điều tốt. 
Nhưng đâu là điều tốt thật sự? 
Đối với ta, đó là giàu sang, sống lâu, danh tiếng, thành công hay mạnh khỏe. 
Đối với Chúa, không hẳn luôn là như vậy. 
Điều Ngài thấy là tốt, đôi khi ta coi là hòn đá hay con rắn. 
Và ngược lại, điều ta coi là tốt bây giờ thật ra là điều nguy hại mai sau. 
Với cái nhìn của người cha, Thiên Chúa biết ta thực sự cần gì. 
Hãy phó thác chuyện đời mình cho tình yêu quyền năng của Ngài, 
dù khi còn sống ở đời này, ta không hiểu hết được tại sao. 

Cầu nguyện :

Lạy Cha là Chúa trời đất, 
Cha là Cha toàn năng, nhưng Cha lại không phải là nhà độc tài. 
Cha không quyết định một cách vô lý và độc đoán. 
Cha đã cho con người được chia sẻ tự do của Cha, 
và Cha luôn tôn trọng tự do ấy, 
dù con người đã lạm dụng tự do để làm điều xấu. 
Lạy Cha toàn năng, 
khi trao cho loài người chúng con tự do, 
Cha đã muốn tự giới hạn phần nào sự toàn năng của Cha. 
Bởi đó sự dữ có sức mạnh tung hoành trong thế giới này. 
Khi lòng độc ác của một số người đã treo Con Cha lên, 
chúng con hiểu Cha có đủ quyền năng để đưa Ngài xuống. 
Nhưng Cha đã muốn Con Cha chia sẻ cái chết bất công 
của bao người thấp cổ bé miệng. 
Và Cha muốn cái chết ô nhục trên thập giá 
trở nên dấu chỉ của tình yêu cao nhất, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. 
Lạy Cha toàn năng và khiêm hạ, 
chúng con tin Cha vẫn đang làm việc để phục vụ chúng con. 
Cha vẫn trao ban bánh và cá cho nhu cầu hàng ngày. 
Cha vẫn mở cửa khi nghe tiếng gõ rụt rè của chúng con. 
Chúng con tin vào tình yêu Cha dành cho từng người ngay giữa sóng gió. 
Và chúng con biết mình không bao giờ thất vọng. Amen. 
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.