Hai quan điểm
Quan điểm của
những người Pharisêu
và quan điểm của
Đức Giêsu
Trong trật tự tự
nhiên, cả hai quan điểm đó đều tốt, nhưng quan điểm của Đức Giêsu dẫn tới chiều
kích siêu nhiên.
Tôi xin trưng
dẫn những nhân vật khác nhau để minh hoạ cho từng quan điểm một:
Trước hết, tôi
hỏi những người Pharisêu, các luật sĩ, những người lui tới Đền Thờ, những người
theo học với nhà thông thái Gamaliet: “Tôi phải làm gì khi có một người có đời
sống bê bối muốn làm bạn với tôi, khi một người nào đó có thể gây ảnh hưởng xấu
trên tôi, làm thiệt hại cho tôi, có nguy cơ làm cho tôi mất tiếng tốt, cái
tiếng tốt mà tự nhiên tôi vẫn tự hào? Tôi phải có thái độ như thế nào?”.
Simon tật phong,
nhân danh tất cả những người mà ông đại diện, nói cho tôi tất cả những gì ông
cho là đúng, là chính đáng. Ông phản ánh hoàn toàn cái não trạng của những
người trong Đền Thờ, rất phổ biến trong dân chúng, là cái não trạng cố gắng vui
vẻ làm hết sức mình những việc phải làm trong một xã hội mà họ có trách nhiệm
phải ảnh hưởng, thậm chí giáo dục nữa.
Simon tật phong
là một người tốt. Ông cư ngụ tại làng Bêtania cách Giêrusalem ít nhất hai cây
số. Tối nào ông cũng trở về nhà. Là một người Pharisêu, ban ngày ông làm việc
tại Đền Thờ. Những người Pharisêu kết hợp lại thành một nhóm người quý phái tự
cho mình có nhiệm vụ bảo vệ lề luật. Kể từ thời nữ hoàng Alexandra – từ năm 76
đến 67 trước Đức Kitô – những người Pharisêu một cách nào đó nắm quyền lãnh đạo
tinh thần của dân Do Thái. Họ tự coi mình như những người ưu tú nhất của xã
hội. Họ cảm thấy mình là những người đạo đức nổi bật, và lòng nhiệt thành của
họ là một trong những vinh quang chính yếu của họ (theo Tự vựng Thánh Kinh của
Giám Mục Vincent, trang 370).
Thỉnh thoảng Đức
Giêsu nhắc nhở họ, những lúc họ làm ra vẻ quan trọng với những hình thức phô
trương của họ, với những cái chướng tai gai mắt của họ.
Simon tật phong
thường nghe nói về Đức Giêsu, thậm chí ông đã nghe Ngài nói ở những bậc Đền
Thờ. Ông thấy Ngài có những cái hay hay, ông đã bàn luận về Ngài dường như
không thống nhất. Nhiều người nói: “Đó là một Tiên tri, giáo huấn của Ngài mới
mẻ, Ngài làm được cả những phép lạ, dân chúng say mê Ngài”. Có những người háo
chiến lên giọng tức giận kết án Đức Giêsu, lên án lời nói, cử chỉ, con người
của Ngài; họ công khai muốn Ngài biến mất, thậm chí muốn Ngài chết.
Simon tật phong
vẫn nuôi trong bụng ý muốn gặp Đức Giêsu, nếu muốn nhận định riêng của mình về
Ngài. Vì thế, ông đã hành động một cách kín đáo. Giấu không cho các đồng sự của
mình biết, ông mời Đức Giêsu về quê, ở Bêtania. Đức Giêsu nhận lời. Tại đó, ta
có thể thấy được hai quan điểm rất khác nhau: quan điểm của Simon và quan điểm của Đức Giêsu.
Đức Giêsu, không
phải là người chấp nhất, Ngài đã ăn uống với những người nghèo khổ, tội lỗi,
tại sao lại bỏ lỡ cơ hội để ăn uống với một người Pharisêu ăn mặc bảnh bao và
được kính trọng này. Có lẽ Ngài cùng đến Bêtania với Mẹ Ngài, Phêrô, Giacôbê và
Gioan.
Phép lịch sự có
những đòi buộc của nó, và những người Do Thái có giáo dục rất quen thuộc với
những nghi thức tiếp tân cho phép họ đánh giá dễ dàng khách được mời. Chắc hẳn
để khỏi làm dơ những tấm thảm quý giá làm tại Ba Tư hay Thổ Nhĩ Kỳ, ngay ở cổng
vào, người ta có để những cái vại lớn đựng nước sạch và khăn lau dư dả. Nếu họ
tiếp đón người nào mà họ cho là quan trọng hay thân tình, thì chính chủ nhà sẽ
đem nước và khăn đến, quỳ xuống dưới chân khách để rửa cho khách. Tiếp theo là
những lời chào hỏi, những cử chỉ thân thiện để tạo nên một bầu khí thuận lợi.
Đức Giêsu là một
nhà tâm lý tinh tế, Ngài chờ đợi giây phút đặc biệt ấy.
Simon cảm thấy
bối rối, ông phải đón tiếp Đức Giêsu theo kiểu tiếp tân nào đây? Ông muốn xử sự
cho đúng, nhưng ông không muốn chuốc lấy sự chống đối của người thân với ông.
Nếu ông đem nước và khăn tới, nếu ông quỳ xuống rửa chân cho người khách đặc
biệt này, điều đó có nghĩa là ông có cảm tình với Ngài, và có lẽ phần nào bị
giáo thuyết của Ngài hấp dẫn. Simon đã chọn lựa, ông muốn tránh bị những người
thân ông, gia đình ông, những người Pharisêu, và giới thẩm quyền ở Đền Thờ hiểu
lầm. Tóm lại, ông đã để Ngài tự làm lấy tất cả, như thể Ngài là một gia nhân
vậy.
Rồi mọi người
đều vào bàn, và khi mọi người bắt đầu dùng thì có một người lạ không được mời
cũng tới: đó là cô Maria Mađalêna. Cô cũng ở làng Bêtania này. Cô rất đẹp, hấp
dẫn, mọi cặp mắt đều hướng về cô.
Simon tật phong
khó chịu, ông sợ nàng làm vấy bùn vào cái danh giá của ông trước mặt Đức Giêsu,
cô hàng xóm mà ông biết rõ này là một gái điếm.
Nàng tiến tới
chỗ Đức Giêsu, ngồi dưới chân Ngài. Simon ngạc nhiên về sự thân thiện này và
mặc cho tưởng tượng của mình bay bổng. Ông tự nhủ: “Nếu ông Giêsu này là một
người nhân đức, ông sẽ không chấp nhận được lối ăn ở của thiếu phụ này. Nếu ông
là một tiên tri, ông phải nhận ra mối nguy hiểm có thể làm tổn thương danh dự
của ông. Tất cả những gì người ta nói về ông – nào là đọc được tư tưởng, biết
tận đáy tâm hồn người ta, nào là làm được những phép lạ kỳ diệu – đều sai cả
sao?”.
Sự nghi ngờ của
ông gia tăng, và những gì bản thân ông khám phá được về Đức Giêsu đều trở nên
thành tiêu cực.
Đức Giêsu theo dõi sát nút sự chuyển biến tư
tưởng của Simon, và làm tỏ bày con người ông.
Đây là hai quan điểm đối kháng nhau, cả hai quan điểm đều đáng bênh vực và thường gặp trong xã
hội. Ông Simon tự nhủ: nếu ông Giêsu quả đúng như người ta nói, ông sẽ phải xa
tránh người phụ nữ này: “Thưa bà, tôi rất tiếc nhà này không phải là chỗ của
bà, xin bà vui lòng đi chỗ khác, tôi không thích những việc tỏ tình cảm trước
như thế, nên bà chỉ mất thời giờ thôi”.
Nếu Ngài làm như
thế, Simon sẽ vỗ tay tán thành vì ông nóng lòng đuổi cô gái phá đám này đi chỗ
khác. Vả lại, cứ để tình trạng hỗn loạn này xảy ra sẽ đưa đến những chuyện
không tốt đẹp. Một quả táo đã hư mà để chung trong một thùng táo thật tốt không
vì thế mà trở lại tốt được, đúng hơn là nó sẽ làm cho những trái tốt bị lây
nhiễm. Mọi người đều nhất trí nguyên tắc này: phải tự đề phòng cho mình. Vì
thế, chỉ có một phương thuốc: bắt chị ta xa khỏi những người trong nhà ông.
Simon biết ông
phải làm gì: “Này Maria Mađalêna, cô không được phép ở đây!”. Người ta tự vệ
bằng cách tạo nên những xa cách sinh ra lãnh đạm và quên lãng.
Đó là triết lý
của Simon: xem xét, làm để tự bảo vệ lấy mình. Tâm lý này rất phổ biến nơi
những người đứng đắn, nó phát sinh từ một hình thức khôn ngoan tự nhiên.
Đức Giêsu muốn
làm cho Simon tiến bộ hơn. Đến lượt Ngài, Ngài nói những gì đang diễn ra trong
lòng mình “Này Simon, khi tôi vào nhà ông, ông đã chẳng tiếp tôi như khách quý,
như bạn thân tình, ông đã để chúng tôi, tôi và những người của tôi, phải tự lo
rửa chân lấy, làm như chúng tôi là gia nhân trong nhà vậy. Ông sợ bị người ta
hiểu lầm. Khi thấy người phụ nữ mà ông biết rõ này tới, ông còn sợ rằng tôi
nghĩ xấu cho ông. Nỗi sợ bị người khác hiểu sai lạc về mình thôi thúc ông đuổi
Maria Mađalêna đi. Toàn bộ tâm lý của ông huy động cơ chế phòng vệ, thực ra chỉ
là để tránh cho ông khỏi mất thể diện và bảo vệ tiếng tốt cho ông thôi. Cái não
trạng của ông chỉ quy về mình thôi, còn người khác thì tính sau”.
Trong khi Đức
Giêsu còn đang nói về Simon, thì kìa Maria Mađalêna quỳ gối xuống, đôi bàn tay
ôm lấy chân Đức Giêsu, và bỗng nhiên, nàng oà lên khóc nức nở. Khi đụng đến Đức
Giêsu, nàng có những dự định tội lỗi hay nàng muốn tìm sự hối cải? Động lực
thúc đẩy nàng là gì không quan trọng, có một chuyện chắc chắn là: một thần lực
từ con người Đức Giêsu toát ra khiến cho nàng hối cải ngay tức khắc, triệt để,
biến đổi con người nàng, và có tính lâu bền.
Tâm lý của Đức
Giêsu, mà chúng ta gọi là tâm lý Kitô giáo, xây dựng trên ba tác động của đức
khôn ngoan: xem, xét, làm, không phải để bảo vệ cho mình mà để giúp đỡ tha
nhân. Thay vì để cho sợ hãi điều khiển, thì ta để cho lợi ích của tha nhân
hướng dẫn ta.
Trong thâm tâm,
Simon tự nhủ: “Cút đi Maria Mađalêna, mày là hiểm hoạ chung cho mọi người, mày
là con điếm”. Nhưng Đức Giêsu nói: “Lại đây và theo Ta, Maria Mađalêna, cô là
con gái của Cha Ta. Hôm nay Ta đón tiếp cô...”, ngày mai thì sẽ đón tiếp Lêvi,
người phụ nữ ngoại tình, người đàn bà Samaritanô, Zakêu, người trộm lành.
Người ta thường
có hai não trạng này:
Não trạng của
Simon thường có nơi những người Pharisêu và các luật sĩ, họ sợ Đức Giêsu, tìm
cách bắt bẻ Ngài, tìm hiểu Ngài một cách thiên kiến, tìm kiếm những sơ hở của
Ngài, và cuối cùng giết Ngài (x. Lc 7, 36-50).
Trong bọn họ có
một người khôn ngoan nhất nói: “Các người không thấy rằng thà chỉ một người
chết cho những người khác bình an chẳng hơn sao?”, còn Đức Giêsu nói với mọi
người không trừ ai: “Ta đến cứu vớt những gì đã hư mất, Ta đến vì những người
đau yếu chứ không vì những người khoẻ mạnh, Ta đến để tìm những con chiên lạc”
(Mc 2,17)